spot_img
19.6 C
New York
Thứ Bảy, Tháng Sáu 3, 2023

Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông – Ánh sáng luật

Sau Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản ( 1924 ), với tư cách Ủy viên Ban phương Đông, đảm nhiệm Cục phương Nam – một thành viên chính thức của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc được cử đến Trung Quốc để chỉ huy trào lưu cách mạng ở một số ít nước Châu Á Thái Bình Dương. Tháng 11 – 1924, Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu Trung Quốc và mở màn tiến hành hoạt động giải trí về những nước Khu vực Đông Nam Á .

I. Diễn tiến vụ án

1. Tới nửa đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc đã hoàn thành xong trong bước đầu một số ít công tác làm việc ở những nước ( Xiêm, Malaysia, Indonesia, Nước Singapore … ). Sau khi thoát khỏi cuộc vây bắt ở Nước Singapore, đầu tháng 5 – 1930, Nguyễn Ái Quốc trở lại Hồng Kông. Lúc này, Hồng Kông là một thành phố “ bỏ ngỏ ”, chính quyền sở tại nơi này không yên cầu những người đến đây phải làm những thủ tục nhập cư phức tạp. Ở đây những tổ chức triển khai dân chủ đều hoàn toàn có thể sống sót tương đối tự do, những người thuộc những dân tộc bản địa khác nhau hoàn toàn có thể đến cư trú nếu họ bị chính quyền sở tại nước họ truy nã vì hoạt động giải trí chính trị .

2. Trong thời gian ở Hồng Kông, giấy căn cước của Nguyễn Ái Quốc mang tên Trung Quốc là Tống Văn Sơ. Địa chỉ thường trú là số nhà 186 Tam Kung. Nơi đây là cơ sở bí mật, có mật hiệu an toàn cho các đồng chí đến liên lạc cảnh báo để không bị bắt. Tổng hợp những tài liệu tịch thu được ở Sài Gòn, Singapore, Thượng Hải, mật thám Pháp đã phối hợp với mật thám Anh tìm ra được địa chỉ này của Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông.

3. Sáng sớm, ngày 6-6-1931, khi Nguyễn Ái Quốc còn đang rửa mặt, một nữ chiến sỹ khác đang quét nhà, thì cửa lớn bị xô mạnh bật ra : Một tốp công an ập vào xích tay cả hai người và lục soát. Không tìm được chứng cứ gì. Cả hai bị dẫn ra xe đưa về Sở Cảnh sát Hồng Kông. Nguyễn Ái Quốc bị giam ở đây suốt một tuần. Khi bị bắt, qua thẩm vấn của Thư ký Trung Hoa vụ ở Hồng Kông, Nguyễn Ái Quốc khai tên là Tống Văn Sơ, sinh tại Trung Quốc. Ngày 12-6 công an đưa Nguyễn Ái Quốc chuyển về nhà tù Victoria và giam ở đây suốt gần hai năm, từ tháng 6-1931 đến tháng 1-1933 .
4. Sau khi Nguyễn Ái Quốc bị bắt ở Hồng Kông, những giới chức của Pháp ở Đông Dương và những Bộ trưởng ở chính quốc tỏ thái độ chúc tụng, hoan hỉ ; đồng thời vạch kế hoạch hoạt động chính quyền sở tại Hồng Kông giao Nguyễn Ái Quốc cho Pháp bằng cách dẫn độ về Nước Ta để thi hành bản án tử hình vắng mặt mà Tòa án Vinh ( Nghệ An ) đã tuyên từ tháng 10 – 1929. Nếu không được thì giam giữ Nguyễn Ái Quốc ở một thuộc địa xa xôi nào đó của Anh, không để Nguyễn Ái Quốc liên tục hoạt động giải trí và tuyệt đối tránh trả tự do cho Nguyễn Ái Quốc bằng mọi giá .

II. Luật sư tham gia bào chữa từ giai đoạn điều tra – Cãi vì nghề chứ không vì tiền

1. Sáng ngày bị bắt ( 6-6-1931 ), trong lúc bị dẫn về Sở Cảnh sát Hồng Kông, Tống Văn Sơ đã gặp Hồ Tùng Mậu từ trong tù được thả bước ra. Nguyễn Ái Quốc kịp đưa mắt ra hiệu cho Hồ Tùng Mậu. Hồ Tùng Mậu hiểu ý và ngay sau đó đã đến gặp ông Francis Henry Loseby – một luật sư dân chủ văn minh người Anh, đang hành nghề ở Hồng Kông nhờ giúp sức .
2. Ngày 8-6, Luật sư Loseby quyết định hành động đi tìm gặp Tống Văn Sơ ở trại giam. Với lương tâm nghề nghiệp, luật sư tự coi mình có nghĩa vụ và trách nhiệm bảo vệ thân chủ người Đông Dương này. Đến Sở Cảnh sát người ta phủ nhận không tiếp ông. Mấy hôm sau, luật sư lại đến, người ta nói không bắt ai là Tống Văn Sơ cả. Mãi đến ngày 25-6, do yên cầu nhất quyết, Luật sư Loseby mới được cho gặp Tống Văn Sơ. Hai người trao đổi với nhau bằng tiếng Anh khá lâu. Luật sư biết được 1 số ít cụ thể quan trọng : Tống Văn Sơ mướn nhà 186 Tam Kung. Khi bị bắt, trong người và trong nhà không có tài liệu gì. Lúc bắt người, công an không đọc lệnh, trong thực tiễn lúc này chưa có lệnh bắt của ủy viên công tố …
3. Qua tiếp xúc, Tống Văn Sơ cảm ơn luật sư, nhưng ngay thật bảo với luật sư rằng mình không có tiền để nhờ luật sư cãi. Luật sư Loseby nói : “ Tôi cãi hộ ông vì danh dự chứ không nhất thiết chỉ vì tiền. Ông chỉ cần nói cho tôi nghe những điều gì mà tôi hoàn toàn có thể dựa vào đấy để bênh vực cho ông. Ông sẽ cùng tôi đàm đạo những việc làm sắp đến. Tôi tin rằng ông sẽ giúp sức tôi nhiều … ” .

III. Kỹ năng tranh tụng: Bảo vệ thân chủ bằng pháp luật

1. Từ hơn 3 thế kỷ trước, Đạo luật Hapeas Corpus được Viện dân biểu Anh trải qua vào năm 1679, lao lý mọi người đều phải được đưa ra xem xét có tội hay không để sau đó nhà nước mới có quyền triển khai việc giam giữ người đó. Đây là văn kiện mang hiến tính, đặc biệt quan trọng quan trọng bổ trợ cho Đại Hiến chương Magna Carta năm 1215 vào “ hiến pháp tục lệ ” của Vương quốc Anh nhằm mục đích bảo vệ tự do cá thể, tránh thực trạng bắt bớ trái phép .
2. Việc bắt Nguyễn Ái Quốc đã được thực thi bí hiểm. Nhưng sau đó báo chí truyền thông đã đưa tin, phanh phui dồn dập nên việc đưa Nguyễn Ái Quốc ra tòa xét xử công khai minh bạch là việc “ chẳng đặng dừng ”. Có thể nói đây là lần tiên phong trong lịch sử dân tộc thuộc địa, Tòa án tối cao phải xét xử một án chính trị, cũng là dịp cho ông Nguyễn được tạm rời xà lim trong mấy tiếng đồng hồ đeo tay .

3. Từ tháng 7 đến tháng 9 -1931, Nguyễn Ái Quốc ra tòa 9 lần. Phiên tòa dưới sự chủ trì của thẩm phán Joseph Kemp (Chánh án) và thẩm phán Justice Lindsell (Phó Chánh án) với hai công tố viên C.G. Alabaster và Somerset Fitzroy (Đại diện Hoàng gia). Hai luật sư bào chữa là luật sư F.H. Loseby, Trưởng Văn phòng luật sư Russ và Cộng sự (Russ & Co) và Luật sư F.C.Jenkin (trực tiếp bào chữa trước tòa theo ủy nhiệm của Luật sư Loseby). Bị cáo Tống Văn Sơ có mặt tại phiên tòa suốt từ đầu tới cuối, còn bị cáo Lý Tam đến ngày thứ ba (15-8) đã được phóng thích vì tòa xét thấy không có chứng cứ buộc tội.

4. Qua những buổi đăng đường xét xử, công tố viên luôn tìm cách buộc tội Tống Văn Sơ là cộng sản, là gián điệp của Mátxcơva đến Hồng Kông với tiềm năng phá hoại, nguy hại cho bảo mật an ninh, trật tự của Hồng Kông. Công tố viên nhu yếu Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo nhiều năm tù hoặc ít ra cũng phải trục xuất về Đông Dương. Trong khi đó, qua tranh tụng luật sư khi bào chữa cho Tống Văn Sơ cố tập trung chuyên sâu vào ba điểm pháp lý cơ bản : Một là, việc bắt Tống Văn Sơ là phạm pháp, vì bị cáo trong thực tiễn bị bắt ngày 6-6 nhưng mãi đến ngày 12-6, Thống đốc Hồng Kông mới ký lệnh bắt ( bắt người đang bị tạm giam ). Hai là, nhân viên cấp dưới thẩm vấn lấy cung phạm pháp, đặt ra cho bị cáo những câu hỏi vượt ra ngoài khoanh vùng phạm vi thẩm vấn luật định, đã hỏi quá 7 câu hỏi luật định và sau khi hỏi cung đã lập ra một tờ khai cung trá hình đang có trong bút lục hồ sơ. Ba là, nhu yếu của phía công tố đòi trục xuất bị cáo về Đông Dương nơi bị cáo đã bị án tử hình, cũng là trái luật. Vì theo pháp lý hiện hành, việc trục xuất chỉ vận dụng so với thần dân của Vương Quốc Anh, còn Tống Văn Sơ là dân của nước khác không hề vận dụng …
5. Sau 9 ngày xét xử, ngày 11 – 9-1931 Tòa tuyên hủy bỏ mọi điều buộc tội Tống Văn Sơ. Tuy nhiên, Tống Văn Sơ vẫn bị trục xuất khỏi Hồng Kông và phải quay trở lại Đông Dương. Ngày hôm sau, 12-9, Luật sư Jenkin giúp bị cáo nộp bản kháng án lên Hội đồng Cơ mật với những luận cứ là : cơ quan hành pháp đã có hành vi lạm quyền, phát hành lệnh trục xuất giả dối trên cơ sở chứng cứ giả, do đó lệnh trục xuất không có giá trị ; theo luật Hapeas Corpus, bị cáo phải được thả … Hội đồng xét xử chấp thuận đồng ý cho bị cáo kháng án lên Hội đồng Cơ mật ở Luân Đôn và thông tư hồ sơ vụ án phải được chuẩn bị sẵn sàng hoàn tất gửi đi trong vòng ba tháng .

IV. Kết thúc vụ án: Nguyễn Ái Quốc về lại Liên Xô

1. Trong quy trình liên tục tham gia vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông, sau khi Nguyễn Ái Quốc đã nộp kháng nghị đến Hội đồng Cơ mật, có luật sư Denis Noel Pritt ( đại diện thay mặt cho Tống Văn Sơ ) và luật sư Richard Stafford Cripps ( đại diện thay mặt cho Bộ thuộc địa Anh ). Hai bên luật sư đã hòa giải và cùng đi đến thỏa thuận hợp tác như sau : Người kháng án ( Tống Văn Sơ ) rút đơn kháng án với cam kết của chính quyền sở tại Hồng Kông : 1. Bỏ việc chỉ định “ tàu biển ” trong lệnh trục xuất ; 2. Trong bất kể trường hợp nào cũng không giao người kháng án cho Pháp hoặc đến một chủ quyền lãnh thổ do Pháp bảo lãnh hoặc xuống một tàu biển của Pháp ; 3. Chính quyền Hồng Kông sẽ rất là nỗ lực để bảo vệ rằng người kháng án sẽ đến được nơi họ muốn đến ; 4. Chi 250 bảng Anh cho phí tổn của người kháng án .
2. Ngày 21 – 7-1932, Hội đồng Cơ mật ( Privy Council ) Hoàng Gia Anh tại Cung điện Buckingham đã chấp thuận đồng ý cho Tống Văn Sơ ( Nguyễn Ái Quốc ) rút đơn kháng án và thông tư cho Thống đốc Hồng Kông và những bên tương quan phải thực thi nghiêm chỉnh .
3. Như vậy là theo quyết định hành động của Hội đồng Cơ mật, Tống Văn Sơ ( Nguyễn Ái Quốc ) phải rời khỏi Hồng Kông nhưng được lựa chọn đến nơi nào Nguyễn Ái Quốc muốn. Ý nghĩa nội dung của quyết định hành động này là : Thứ nhất, tuyệt đối không có gì chứng tỏ rằng ông Nguyễn là tay sai của Liên Xô. Thứ hai, không có chứng cứ ông Nguyễn muốn phá hoại Hồng Kông. Thứ ba, cộng sản hay vương quốc điều đó không phải là một tội phạm trước pháp lý Anh .
4. Nhờ sự tận tình trợ giúp của luật sư, Tòa án đã không đủ chứng cứ kết tội và đã phải trả tự do cho bị cáo – dù việc đó họ không khi nào muốn mà vẫn phải tuân theo pháp lý. Trong cuộc hành trình dài Nguyễn Ái Quốc rời khỏi Hồng Kông, vợ chồng luật sư Loseby liên tục trợ giúp Nguyễn Ái Quốc vượt qua được nhiều khó khăn vất vả “ hậu vụ án ” mà công an, mật thám Anh, Pháp vẫn còn cố đeo bám gây trở ngại cho ông .
5. Trong khi đó, báo chí truyền thông và dư luận đồn Nguyễn Ái Quốc đã chết trong tù vào năm 1932 : Báo Đông Pháp ngày 3-7-1932, Ngọ Báo ngày 3-7-1932, Đuốc Nhà Nam ngày 23-7-1932 … Riêng Báo Nhân đạo ( L’Humanité ) – Cơ quan của Đảng Cộng sản Pháp ngày 9-3-1932 cũng đăng bài “ Nguyễn Ái Quốc, người sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương, đã chết trong tù ” đưa tin Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh lao phổi trong trạm xá thuộc nhà tù Hồng Kông .
6. Nguyễn Ái Quốc đã rời Hồng Kông đi Hạ Môn ( Amoy ), rồi Thượng Hải và đáp tàu từ Thượng Hải đi Vladivostok, rồi về Matxcơva ( 1934 ). Sau hơn hai năm bị giam giữ, Nguyễn Ái Quốc lại quay trở lại với những chiến sỹ cộng sản của mình trong đại gia đình vô sản quốc tế .

“Ba năm lưu lạc linh đinh

Nay đã trở lại trong đại gia đình công nông ! ”
Có được kết thúc như vậy, sự góp phần của luật sư không phải nhỏ. Luật sư Giao hàng với cả tấm lòng, kiến thức và kỹ năng hành nghề sắc bén và dựa vào quy định hành nghề luật sư lúc đó .
( Bài viết này lấy từ nguồn sách “ Truyền thống Luật sư Nước Ta ” của những tác giả Phan Đăng Thanh – Trương Thị Hòa, Nhà xuất bản tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. )

Source: https://wincat88.com
Category: BLOG

Đánh giá post
spot_img

BÀI VIẾT CÙNG CHỦ ĐỀ

ĐƯỢC XEM NHIỀU