spot_img
11 C
New York
Chủ Nhật, Tháng Sáu 4, 2023

Đọc hiểu Nhớ đồng – văn mẫu – Tài liệu text

Đọc hiểu Nhớ đồng – văn mẫu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.22 KB, 6 trang )

I – Gợi dẫn
1. Tác giả (xem bài Từ ấy).
2. Bài Nhớ đồng được viết vào tháng 7 – 1939 trong nhà lao Thừa Phủ ở Huế. Bài thơ thuộc phần Xiềng
xích trong tập Từ ấy.
Bài thơ thể hiện tâm trạng của tác giả trong những ngày bị giam cầm trong nhà tù thực dân. ở trong tù,
người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi hướng ra bên ngoài bằng một tình yêu thương vô bờ đối với quê hương,
với cuộc đời. Tâm trạng đó thể hiện nỗi khao khát tự do của người tù trẻ tuổi.
Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình được phát triển như sau :
– Xác nhận tâm trạng chính là nhớ thương bằng một câu nghi vấn tu từ mở đầu và được lặp lại 4 lần trong
toàn bài.
– Nhân vật trữ tình hướng ra cuộc sống bên ngoài bằng một dòng hồi tưởng :
+ Hồi tưởng về quê hương với những hình ảnh thân quen, bình dị nhưng đượm buồn. Đó là đồng ruộng,
luỹ tre, ngôi nhà và những con người lam lũ trong cảnh nô lệ lầm than, những linh hồn người xưa.
+ Hồi tưởng về những chặng đường đến với cách mạng : những ngày băn khoăn, bế tắc vì chưa tìm ra lí
tưởng cuộc đời và những ngày hạnh phúc vì đã tìm thấy và bắt gặp ánh sáng cách mạng.
Dòng hồi tưởng ấy thể hiện nỗi khao khát tự do của nhân vật trữ tình.
3. Đọc chậm, giọng thiết tha, tình cảm sâu lắng.
II – Kiến thức cơ bản
Nhớ đồng là bài thơ trữ tình chính trị tiêu biểu cho phong cách thơ cách mạng Tố Hữu. Năm 1938, nhà
thơ bị bắt khi đang say sưa với lí tưởng cách mạng. Những ngày nằm trong tù, nhà thơ đã hướng ra cuộc
sống bên ngoài với tất cả nỗi nhớ, tình yêu và khát khao tự do. Tâm trạng ấy được khái quát trong câu thơ
:
Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò !
Câu thơ với hình thức câu nghi vấn tu từ được lặp lại nhiều lần đã nhấn mạnh và làm nổi bật tâm trạng
của nhân vật trữ tình. Nhà thơ đã rất thành công khi dùng hình thức trữ tình để thể hiện lí tưởng cộng sản.
Câu thơ đã khái quát nội dung cảm xúc của toàn bài. Đó là tâm trạng cô đơn, là nỗi buồn của người tù
đang say mê lí tưởng đột ngột bị giam cầm trong bốn bức tường lạnh lẽo của xà lim. ở Tâm tư trong tù,
tâm trạng ấy được thể hiện sôi nổi, bức xúc và mạnh mẽ hơn. Còn ở Nhớ đồng lại sâu lắng hơn. Nhớ
đồng là cách nói hình tượng, có ý nghĩa tượng trưng. Tuy trong nỗi nhớ của nhân vật hình ảnh đồng ruộng
quê hương có xuất hiện nhưng nỗi nhớ ấy là nhớ quê hương, nhớ người thân, nhớ những ngày đã qua.

Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình được phát triển theo các giai đoạn : nhớ đồng quê, nhớ những bóng
hình quen, những hồn, những ngày xưa… và cuối cùng tổng kết lại bằng một câu thơ có nội dung khái
quát :
Tôi mơ qua cửa khám bao ngày
Tôi thu tất cả trong thầm lặng
Như cánh chim buồn nhớ gió mây.
Hình ảnh “chim buồn nhớ gió mây” đã khái quát thực chất nỗi “nhớ đồng” là nỗi khát khao tự do.
Lần theo mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình – người tù, chủ thể của nỗi nhớ – để tìm hiểu giá trị nội
dung và giá trị nghệ thuật của thi phẩm.
Câu thơ mở đầu và cũng là ý thơ được lặp lại nhiều lần (4 lần) có ý nghĩa khẳng định sự mãnh liệt của nỗi
nhớ. Gì sâu bằng là cấu trúc có ý khẳng định “không gì sâu (mạnh) hơn”. Những trưa thương nhớ là
những ngày trong cảnh tù đày. Cấu trúc nghi vấn tu từ kết hợp với từ đâu khiến điệu thơ da diết, sâu lắng
nhưng không kém phần mãnh liệt. ở đây nhà thơ đã dùng nghệ thuật đảo trật tự thành phần để làm nổi bật
thành phần một tiếng hò. “Tiếng hò” là âm thanh gợi nhớ tới quê hương, nó giống như âm thanh của
“tiếng guốc đi về” ở Tâm tư trong tù. Đó là âm thanh dội về từ kí ức. Cái âm thanh gợi từ tưởng tượng ấy
đã dẫn dắt các hình ảnh cụ thể của cuộc sống bên ngoài. Thế giới bên ngoài lần lượt xuất hiện trong nỗi
nhớ của nhân vật trữ tình với các hình ảnh thân quen và gần gũi.
Hình ảnh quê hương của những ngày yên vui thanh bình và cả những khổ đau, cực nhọc :
Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruồng tre mát thở yên vui

Giữa dòng ngày tháng âm u đó
Không đổi nhưng mà trôi cứ trôi…
Những hình dáng thân thương, bình dị và đượm nỗi buồn cũng lần lượt hiện về trong nỗi nhớ. Tất cả đều
hiện lên với vẻ cực nhọc “lưng cong xuống luống cày”, thấm đẫm nỗi buồn đau, xơ xác “lúa mềm xao
xác”, giọng hò đưa hố “não nùng”, “mẹ già xa đơn chiếc”. Đó là những hình ảnh gợi tả cảnh quê hương
đau thương trong những ngày nô lệ lầm than, đó là những hình ảnh đã in sâu trong kí ức của người tù, nó
là động lực tạo nên sức mạnh chiến đấu của người cộng sản. Nỗi nhớ ngày càng được thể hiện mãnh liệt
hơn với giọng điệu da diết :
Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi

Sao mà cách biệt, quá xa xôi
Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ
Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi !
Một loạt từ cảm thán xuất hiện đã diễn tả tình cảm thiết tha đối với cuộc sống, với con người. Dường như
nhân vật trữ tình đang chìm đắm trong nỗi nhớ, trong dòng hồi tưởng. Nó khiến người đọc cảm nhận rõ
tâm trạng cô đơn, đau buồn của người tù. Không chỉ nhớ người sống, người của hiện tại mà còn nhớ cả
những người đã ra đi (những hồn).
Trong dòng hồi ức của nhân vật trữ tình, hình ảnh xuất hiện nhiều nhất, đậm đặc nhất là hình ảnh những
con người lao động lầm than gắn với ruộng đồng quê hương. Những hình ảnh đó thật thân thương nhưng
thật buồn. Buồn bởi đó là hình ảnh quê hương còn trong cảnh nô lệ. Sự nghiệp cách mạng còn đang dang
dở, mơ ước giải phóng quê hương khỏi cảnh nô lệ lầm than chưa thực hiện được mà lại phải nằm trong tù
nên nỗi nhớ thương quê hương vẫn canh cánh bên lòng và nó hiện hình thành những hình ảnh ấy.
Sau hình ảnh quê hương buồn đau trong nô lệ là kí ức về những ngày đầu tiên tìm đến với cách mạng.
Mạch cảm xúc phát triển đúng lôgíc tâm lí. Hai giai đoạn trong chặng đường đi kiếm tìm chân lí đã được
khái quát lại trong hai khổ thơ :
Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn
Muốn thoát, than ôi, bước chẳng rời
Đó là những ngày chưa bắt gặp lí tưởng, chưa có ánh sáng lí tưởng cộng sản soi đường. Nhớ lại những
ngày tăm tối ấy để cảm nhận rõ hơn niềm hạnh phúc, nỗi vui mừng khi gặp ánh sáng cách mạng :
Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi…
Nhịp thơ đột ngột chuyển sang vui vẻ, phấn chấn. Nhớ lại những ngày đầu hăng say bước đi trên con
đường cách mạng với bao nhiêu hi vọng, với niềm lạc quan tin tưởng ấy càng làm cho người chiến sĩ
nhận thức rõ hơn cảnh ngộ của mình. Và anh chợt bừng tỉnh sau những giây phút đắm mình trong suy tư,
nhớ thương :
Cho tới chừ đây, tới chừ đây
Cảnh ngộ được tái hiện và thu gọn trong những câu thơ cuối cùng. Câu thơ kết có sự lặp lại kết cấu câu
thơ đầu nhưng ý có khác tạo nên kết cấu vòng tròn cho bài thơ. Kết cấu ấy thể hiện một điều rằng nhân

vật trữ tình lại tiếp tục đắm chìm trong nỗi thương nhớ ấy.
Bài thơ kết thúc nhưng cảm xúc thơ lại được mở ra một chu trình mới. Bằng một hình thức trữ tình, nhà
thơ đã diễn tả thành công dòng nội tâm của nhân vật trữ tình người tù cộng sản trong cảnh tù đày. Những
nỗi nhớ thương được lặp lại nhiều lần ấy thể hiện sự khát khao hướng ra bên ngoài, khao khát tự do của
người tù trẻ tuổi có trái tim đang căng đầy nhựa sống và tràn trề nhiệt huyết cách mạng.
III – liên hệ
Trong những ngày bị giam cầm tại nhà tù Lao Bảo, nhà thơ Tố Hữu viết nhiều bài thơ khẳng định khí tiết
của người cộng sản – trong đó có bài Trăng trối :
Từ thuở ấy, quăng thân vào gió bụi
Đến hôm nay phút chết đã kề bên
Đến hôm nay kiệt sức, tôi nằm rên
Trên ván lạnh không mảnh mền, manh chiếu.

Đời cách mạng, từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày
Là gươm kề tận cổ, súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn một nửa
Bao khổ ấy, thôi cần chi nói nữa
Bạn đời ơi ! ta đã hiểu nhau rồi.

Nếu mai đây có chết một thân tôi
Hai mươi tuổi, tim đang dào dạt máu
Hai mươi tuổi, hồn quay trong gió bão
Gân đang săn và thớ thịt căng da
Đời mặn nồng hứa hẹn biết bao hoa !
Hai mươi tuổi mới qua vòng thơ bé
Dù phải chết, chết một đời trai trẻ
Liệm thân tàn bằng một mảnh chiếu con
Rồi chôn xương rục thối dưới chân cồn
Hay phơi xác cho một đàn quạ rỉa ?

Tôi chẳng tiếc, chỉ cười trông mai mỉa
Bao nhiêu hình ảnh đó vẽ quanh tôi.

Tiếc làm gì ? Thế cũng đã sống rồi.
Trường giông tố mấy năm trời vật lộn
Với cách mạng, tôi không hề đùa bỡn
Và không hề dám chối một nguy nan.
Dẫu bao nhiêu thành quả của thanh xuân
Tôi mới hái một đôi lần ít ỏi
Và bên bạn, chỉ là tên lính mới
Gót chân tơ chưa dày dạn phong trần
Tôi vẫn hằng tự nghĩ : “Miễn quên thân
Dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa
Thế cũng được, lựa chi nhiều tài trí
Mới là tên lính quý của đoàn quân ?
Và lòng vui, trí nhẹ đủ trăm phần
Tôi sẽ chết bình yên, không hối hận
Tôi sẽ chết như bao nhiêu số phận
Nẻo đường xa, đã mạnh dấn chân vào
Đã từng lăn trong máu dưới gươm trào
Thân đã nặng bởi bao gông xiềng xích !
Tôi sẽ chết, tuy chưa về tới đích
Nhưng cần chi, đã có bạn chung đời
Tung hoành trên mặt đất bốn phương trời
Trường giao chiến không một giờ phút lặng !
Rồi chiến thắng sẽ về ta, chiến thắng
Và tương lai, ta sẽ chiếm về ta !
Trường đấu tranh là một bản hùng ca
Ta sẽ chết trong điệu đàn tranh đấu.

Đây là tiếng, hỡi bạn đời yêu dấu
Của một người bạn nhỏ, trước khi đi
Đây là lời trăng trối để chia li
Hãy đón nó, bạn đời ơi, đón nó !
Đường tranh đấu không một giờ thoái bộ
Sống đã vì cách mạng, anh em ta
Chết cũng vì cách mạng, chẳng phiền hà !
Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng
Lòng khoẻ nhẹ anh dân quê sung sướng
Ngửa mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành
Và trong mơ thơm ngát lúa đồng xanh
Vui nhẹ đến trên môi cười hi vọng.
Lao Bảo, tháng 11 – 1940
(Trong những ngày tuyệt thực)
Mạch xúc cảm của nhân vật trữ tình được tăng trưởng theo những quy trình tiến độ : nhớ đồng quê, nhớ những bónghình quen, những hồn, những rất lâu rồi … và sau cuối tổng kết lại bằng một câu thơ có nội dung kháiquát : Tôi mơ qua cửa khám bao ngàyTôi thu toàn bộ trong thầm lặngNhư cánh chim buồn nhớ gió mây. Hình ảnh “ chim buồn nhớ gió mây ” đã khái quát thực ra nỗi “ nhớ đồng ” là nỗi khát khao tự do. Lần theo mạch xúc cảm của nhân vật trữ tình – người tù, chủ thể của nỗi nhớ – để tìm hiểu và khám phá giá trị nộidung và giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật của thi phẩm. Câu thơ khởi đầu và cũng là ý thơ được lặp lại nhiều lần ( 4 lần ) có ý nghĩa chứng minh và khẳng định sự mãnh liệt của nỗinhớ. Gì sâu bằng là cấu trúc có ý chứng minh và khẳng định “ không gì sâu ( mạnh ) hơn ”. Những trưa thương nhớ lànhững ngày trong cảnh tù đày. Cấu trúc nghi vấn tu từ tích hợp với từ đâu khiến điệu thơ da diết, sâu lắngnhưng không kém phần mãnh liệt. ở đây nhà thơ đã dùng thẩm mỹ và nghệ thuật hòn đảo trật tự thành phần để làm nổi bậtthành phần một tiếng hò. “ Tiếng hò ” là âm thanh gợi nhớ tới quê nhà, nó giống như âm thanh của “ tiếng guốc đi về ” ở Tâm tư trong tù. Đó là âm thanh dội về từ kí ức. Cái âm thanh gợi từ tưởng tượng ấyđã dẫn dắt những hình ảnh đơn cử của đời sống bên ngoài. Thế giới bên ngoài lần lượt Open trong nỗinhớ của nhân vật trữ tình với những hình ảnh thân quen và thân mật. Hình ảnh quê nhà của những ngày yên vui thanh thản và cả những khổ đau, cực nhọc : Đâu gió cồn thơm đất nhả mùiĐâu ruồng tre mát thở yên vuiGiữa dòng ngày tháng âm u đóKhông đổi nhưng mà trôi cứ trôi … Những hình dáng thân thương, bình dị và đượm nỗi buồn cũng lần lượt hiện về trong nỗi nhớ. Tất cả đềuhiện lên với vẻ cực nhọc “ sống lưng cong xuống luống cày ”, thấm đẫm nỗi buồn đau, xơ xác “ lúa mềm xaoxác ”, giọng hò đưa hố “ não nùng ”, “ mẹ già xa đơn chiếc ”. Đó là những hình ảnh gợi tả cảnh quê hươngđau thương trong những ngày nô lệ lầm than, đó là những hình ảnh đã in sâu trong kí ức của người tù, nólà động lực tạo nên sức mạnh chiến đấu của người cộng sản. Nỗi nhớ ngày càng được biểu lộ mãnh liệthơn với giọng điệu da diết : Đâu dáng hình quen, đâu cả rồiSao mà cách biệt, quá xa xôiChao ôi thương nhớ, chao thương nhớÔi mẹ già xa đơn chiếc ơi ! Một loạt từ cảm thán Open đã diễn đạt tình cảm thiết tha so với đời sống, với con người. Dường nhưnhân vật trữ tình đang chìm đắm trong nỗi nhớ, trong dòng hồi tưởng. Nó khiến người đọc cảm nhận rõtâm trạng đơn độc, đau buồn của người tù. Không chỉ nhớ người sống, người của hiện tại mà còn nhớ cảnhững người đã ra đi ( những hồn ). Trong dòng hồi ức của nhân vật trữ tình, hình ảnh Open nhiều nhất, đậm đặc nhất là hình ảnh nhữngcon người lao động lầm than gắn với ruộng đồng quê nhà. Những hình ảnh đó thật thân thương nhưngthật buồn. Buồn bởi đó là hình ảnh quê nhà còn trong cảnh nô lệ. Sự nghiệp cách mạng còn đang dangdở, mơ ước giải phóng quê nhà khỏi cảnh nô lệ lầm than chưa thực thi được mà lại phải nằm trong tùnên nỗi nhớ thương quê nhà vẫn canh cánh bên lòng và nó hiện hình thành những hình ảnh ấy. Sau hình ảnh quê nhà buồn đau trong nô lệ là kí ức về những ngày tiên phong tìm đến với cách mạng. Mạch xúc cảm tăng trưởng đúng lôgíc tâm lí. Hai quy trình tiến độ trong chặng đường đi kiếm tìm chân lí đã đượckhái quát lại trong hai khổ thơ : Đâu những thời xưa, tôi nhớ tôiBăn khoăn đi kiếm lẽ yêu đờiVẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩnMuốn thoát, than ôi, bước chẳng rờiĐó là những ngày chưa phát hiện lí tưởng, chưa có ánh sáng lí tưởng cộng sản soi đường. Nhớ lại nhữngngày tăm tối ấy để cảm nhận rõ hơn niềm niềm hạnh phúc, nỗi vui mừng khi gặp ánh sáng cách mạng : Rồi một hôm nào, tôi thấy tôiNhẹ nhàng như con chim cà lơi … Nhịp thơ bất thần chuyển sang vui tươi, mừng quýnh. Nhớ lại những ngày đầu hăng say bước tiến trên conđường cách mạng với bao nhiêu hy vọng, với niềm sáng sủa tin yêu ấy càng làm cho người chiến sĩnhận thức rõ hơn cảnh ngộ của mình. Và anh chợt bừng tỉnh sau những khoảng thời gian ngắn đắm mình trong suy tư, nhớ thương : Cho tới chừ đây, tới chừ đâyCảnh ngộ được tái hiện và thu gọn trong những câu thơ sau cuối. Câu thơ kết có sự tái diễn cấu trúc câuthơ đầu nhưng ý có khác tạo nên cấu trúc vòng tròn cho bài thơ. Kết cấu ấy biểu lộ một điều rằng nhânvật trữ tình lại liên tục đắm chìm trong nỗi thương nhớ ấy. Bài thơ kết thúc nhưng cảm hứng thơ lại được mở ra một quy trình mới. Bằng một hình thức trữ tình, nhàthơ đã miêu tả thành công xuất sắc dòng nội tâm của nhân vật trữ tình người tù cộng sản trong cảnh tù đày. Nhữngnỗi nhớ thương được lặp lại nhiều lần ấy bộc lộ sự khát khao hướng ra bên ngoài, khao khát tự do củangười tù trẻ tuổi có trái tim đang căng đầy nhựa sống và tràn ngập nhiệt huyết cách mạng. III – liên hệTrong những ngày bị giam giữ tại nhà tù Lao Bảo, nhà thơ Tố Hữu viết nhiều bài thơ khẳng định chắc chắn khí tiếtcủa người cộng sản – trong đó có bài Trăng trối : Từ thuở ấy, quăng thân vào gió bụiĐến ngày hôm nay phút chết đã kề bênĐến thời điểm ngày hôm nay kiệt sức, tôi nằm rênTrên ván lạnh không mảnh mền, manh chiếu. Đời cách mạng, từ khi tôi đã hiểuDấn thân vô là phải chịu tù đàyLà gươm kề tận cổ, súng kề taiLà thân sống chỉ coi còn một nửaBao khổ ấy, thôi cần chi nói nữaBạn đời ơi ! ta đã hiểu nhau rồi. Nếu mai đây có chết một thân tôiHai mươi tuổi, tim đang dào dạt máuHai mươi tuổi, hồn quay trong gió bãoGân đang săn và thớ thịt căng daĐời mặn nồng hứa hẹn biết bao hoa ! Hai mươi tuổi mới qua vòng thơ béDù phải chết, chết một đời trai trẻLiệm thân tàn bằng một mảnh chiếu conRồi chôn xương rục thối dưới chân cồnHay phơi xác cho một đàn quạ rỉa ? Tôi chẳng tiếc, chỉ cười trông mai mỉaBao nhiêu hình ảnh đó vẽ quanh tôi. Tiếc làm gì ? Thế cũng đã sống rồi. Trường giông tố mấy năm trời vật lộnVới cách mạng, tôi không hề đùa bỡnVà không hề dám chối một nguy hại. Dẫu bao nhiêu thành quả của thanh xuânTôi mới hái một đôi lần ít ỏiVà bên bạn, chỉ là tên lính mớiGót chân tơ chưa dày dạn phong trầnTôi vẫn hằng tự nghĩ : “ Miễn quên thânDâng tổng thể để tôn thờ chủ nghĩaThế cũng được, lựa chi nhiều tài tríMới là tên lính quý của đoàn quân ? Và lòng vui, trí nhẹ đủ trăm phầnTôi sẽ chết bình yên, không hối hậnTôi sẽ chết như bao nhiêu số phậnNẻo đường xa, đã mạnh dấn chân vàoĐã từng lăn trong máu dưới gươm tràoThân đã nặng bởi bao gông xiềng xích ! Tôi sẽ chết, tuy chưa về tới đíchNhưng cần chi, đã có bạn chung đờiTung hoành trên mặt đất bốn phương trờiTrường giao chiến không một giờ phút lặng ! Rồi thắng lợi sẽ về ta, chiến thắngVà tương lai, ta sẽ chiếm về ta ! Trường đấu tranh là một bản hùng caTa sẽ chết trong điệu đàn tranh đấu. Đây là tiếng, hỡi bạn đời yêu dấuCủa một người bạn nhỏ, trước khi điĐây là lời trăng trối để chia liHãy đón nó, bạn đời ơi, đón nó ! Đường tranh đấu không một giờ thoái bộSống đã vì cách mạng, đồng đội taChết cũng vì cách mạng, chẳng phiền hà ! Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộngLòng khoẻ nhẹ anh dân quê sung sướngNgửa mình trên liếp cỏ ngủ ngon lànhVà trong mơ thơm ngát lúa đồng xanhVui nhẹ đến trên môi cười hy vọng. Lao Bảo, tháng 11 – 1940 ( Trong những ngày tuyệt thực )

Source: https://wincat88.com
Category: BLOG

Đánh giá post
spot_img

BÀI VIẾT CÙNG CHỦ ĐỀ

ĐƯỢC XEM NHIỀU